Bối cảnh Hải chiến cảng Lữ Thuận

Chiến tranh Nga-Nhật mở đầu bằng cuộc tấn công bất ngờ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào Hạm đội Thái Bình Dương Nga đóng tại cảng Lữ Thuận (còn gọi là cảng Athur) và cảng Chemulpo (nay là cảng Incheon).

Kế hoạch ban đầu của Đô đốc Togolà đột kích vào cảng Arthur với Sư đoàn 1 của Hạm đội liên hợp, bao gồm các thiết giáp hạm Hatsuse, Shikishima, Asahi, FujiYashima, dẫn đầu là kỳ hạm Mikasa, và Sư đoàn 2, bao gồm các tuần dương hạm Iwate, Azuma, Izumo, YakumoTokiwa. Những tàu chính yếu này được hộ tống bởi 13 khu trục hạm và khoảng tàu phóng lôi nhỏ. Lực lượng Dự bị bao gồm các tuần dương hạm Kasagi, Chitose, TakasagoYoshino. Với sức mạnh vượt trội và yếu tố bất ngờ, ông hy vọng có thể giáng một đòn chí tử vào hạm đội Nga trước khi quan hệ ngoại giao giữa 2 chính phủ Nga - Nhật bị cắt đứt.

Về phía Nga, Phó đô đốc Oskar Victorovich Stark có các thiết giáp hạm Petropavlovsk, Sevastopol, Peresvet, Pobeda, Poltava, TsesarevichRetvizan, trợ lực bằng các tuần dương hạm Pallada, Diana, Askold, Novik, và Boyarin, tất cả đều thả neo trong sự bảo vệ ở căn cứ hải quân Arthur. Tuy nhiên, việc phòng thủ cảng Arthur không xứng với tầm cỡ của nó, vì chỉ có một số ít pháo bờ biển được triển khai, ngân quỹ để tăng cường phòng thủ được chia cho cảng Đại Liên ở gần đó, và phần lớn giới sĩ quan đang tổ chức một bữa tiệc tại nhà Đô đốc Stark vào đêm ngày 9 tháng 2 năm 1904.

Vì Đô đốc Togo đã nhận được thông tin sai lầm từ điệp viên địa phương ở trong và xung quanh cảng Arthur rằng lính giữ cảng trong đồn đang ở trong tình trạng báo động cao, ông không muốn mạo hiểm những chiến thuyền quý giá của mình với pháo bờ biển Nga và do đó giữ hạm đội chính của mình ở lại. Thay vào đó, lực lượng khu trục hạm được chia làm hai thê đội tấn công, một thê đội với các đội tàu nhỏ số 1, 2 và 3 tấn công cảng Arthur, và thê đội kia với đội tàu nhỏ số 4 và 5 tấn công căn cứ Nga ở Đại Liên.